XXIV. Nhật tranh quyền đô hộ với Pháp ở Việt Nam

Năm 1940, Pháp đầu hàng Đức, phải nhận để Nhật lập căn cứ chống Mỹ ở Việt Nam.

Năm 1945, phe Trục Đức Nhật Ý yếu thế, Pháp ngầm chuẩn bị đánh đuổi Nhật khỏi Việt Nam.

Ngày 9 3 1945 Nhật vội tấn công lật Pháp để giành quyền cai trị ở Việt Nam.

Ngày 11 3 1945 vua Bảo Đại tuyên bố huỷ bỏ hoà ước Việt Pháp 1884, cuộc đô hộ của thực dân Pháp chấm dứt.

Trần Trọng Kim thành lập chính phủ, nhưng mọi quyền hành đều do Nhật nắm giữ. Nhật và Pháp cộng tác trong kế hoạch tiêu huỷ thực phẩm, gây nạn đói khủng khiếp ở Việt Nam vào tháng 3 năm 1945. Khoảng 2 triệu người bị chết đói.

Tháng 8 năm 1945, Mỹ thả bom nguyên tử ở Nagasaký và Hiroshima. Nhật đầu hàng ngày 15 - 8 - 1945. Nước Việt Nam bị quốc tế phân đôi, trao quyền cho Anh quản trị ở miền Nam và cho Trung Hoa ở miền Bắc.

Từ ngày ấy, nước Việt bị rơi vào nạn chiến tranh giành giật giữa các thế lực đế quốc.

* Phụ Chương 


Khái quát việc tranh chấp giữa các đế quốc ở Việt Nam

Sau cuộc cách mạng Cộng sản thành công tại Nga 1917, một hệ thống tư tưởng mới của Tây phương được trang bị bằng vũ lực đã trở nên khủng khiếp cho nhân loại. Hệ thống tư tưởng này chủ trương biến con người thành con vật và khai thác triệt để yếu tố mâu thuẫn trong mọi cơ cấu xã hội để kìm kẹp dân chúng. Tư tưởng của Karl Max đã được trang bị bằng những phương tiện giết người để huỷ diệt nhân tính. Sau khi cộng sản thắng thế ở Nga thì ảnh hưởng này tràn lan mau lẹ vào các quốc gia còn trong tình trạng nghèo đói và bị ngoại bang đô hộ.

Năm 1920, đảng Cộng sản Trung Hoa thành lập, Borodine cố vấn Nga ở Tàu tiếp nhận Nguyễn Ái Quốc, một thanh niên Việt Nam đang hoạt động tại Tàu (sau này Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Hồ Chí Minh), Nguyễn Ái Quốc sau khi được Cộng sản Nga huấn luyện thì thành lập đảng Cách Mệnh Thanh niên Đồng chí Hội (1925) ở Quảng Châu (Trung Hoa), do Bododine lãnh đạo tối cao. Hội này là chi bộ Việt Nam của hội Á Tế Á Nhược Tiểu Dân Tộc do Cộng Sản Đệ Tam lãnh đạọ Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc còn lập các đảng Cộng sản ở trong nước. Năm 1929, các đảng này cử đại biểu họp ở Hương Cảng, định đổi tên Cách Mệnh Đồng Chí Hội thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Nhưng kết quả là Cộng Sản Bắc kỳ lập Đông Dương Cộng Sản Đảng, Cộng Sản Trung kỳ lập An Nam Cộng Sản Đảng. Trong thời gian này thế lực của Quốc Dân Đảng Trung Hoa còn mạnh và đảng Cộng Sản không được dân chúng chấp nhận nên Nguyễn Ái Quốc trá lập Mặt Trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh hội năm 1941, gọi tắt là Việt Minh để lôi kéo những phần tử quốc gia. Nhưng chính phủ Trung Hoa vẫn biết Việt Minh là Cộng Sản nên bắt Nguyễn Ái Quốc vào năm 1942. Tới năm 1943, vì muốn đoàn kết đảng phái Việt Nam nên Nguyễn Hải Thần xin tha cho Nguyễn Ái Quốc. Được tha rồi, Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Hồ Chí Minh.

Năm 1945, nhận lệnh của Cộng Sản Nga, Hồ Chí Minh về Việt Nam vận động quần chúng bằng danh nghĩa các đoàn thể cách mạng quốc gia để cướp quyền cai trị. Sau các cuộc biểu tình của dân chúng Việt Nam từ ngày 15 tháng 8 tới 19 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh cướp được quyền cai trị của chính phủ Trần Trọng Kim (ngày 25 - 8 - 1945)

Theo Hiệp Định Quốc Tế Yalta và Potsdam (Yalta: ký giữa Anh Churchill, Mỹ Roosevelt, Nga Stalin ngày 11- 2 - 1945. Potsdam: ký giữa Anh Clement Attlee, Mỹ Truman, Nga Stalin), sau đại chiến thứ hai, nước Việt Nam bị phân đôi theo vĩ tuyến 16. Miền Nam do quân đội Anh quản lý. Miền Bắc do quân đội Trung Hoa quốc gia kiểm soát. Ở miền Nam, Mounbaten chỉ huy quân đội Anh Ấn cho phép Pháp là đồng minh của họ trở lại Việt Nam thay thế Anh. Pháp Cedile mang quân nhẩy dù chiếm Sa Đéc ngày 19 - 5 - 1945. Sau đó tướng Leclerc đổ bộ Sài gòn. Pháp lại điều đình với Trung Hoa để được tự do hoạt động ở miền Bắc. Cùng lúc đó Hồ Chí Minh tìm cách lột vàng của nhân dân để đút lót cho Tiêu Văn, Lư Hán và Hoàng Cường là các người chỉ huy quân đội Trung Hoa đóng ở miền Bắc lúc đó, để đoàn quân ô hợp này rút về bên kia biên giới và trao quyền cho Hồ Chí Minh.

Hồi 8 giờ tối ngày 19 - 12 - 1946 Pháp khởi chiến đánh Hà Nội, mở đầu cho cuộc chiến tranh giành quyền lợi ở Việt Nam giữa Cộng Sản và Thực dân. Cuộc chiến tranh nhơ bẩn và khủng khiếp kéo dài tới ngày 20 - 7 - 1954.

Theo Hiệp Định Genève (ký ngày 20 - 7 - 1954), Việt Nam bị chia làm hai, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giớị Miền Bắc thuộc ảnh hưởng Cộng sản (Nga, Tàu), miền Nam thuộc ảnh hưởng Thực dân Pháp. Tại miền Bắc, thế lực Cộng sản càng ngày càng được củng cố và bành trướng. Nga cộng chỉ tích cực gia tăng khả năng chiến tranh cho Cộng sản Việt Nam, nên đời sống dân chúng miền Bắc vô cùng khổ cực, bị đày đọa đói rét. Tại miền Nam, thế lực quốc tế chuyển biến khác với năm 1954. Ngày 23 - 10 - 1955 sau cuộc trưng cầu dân ý, chế độ quân chủ chấm dứt. Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, tay sai cho Pháp, bị truất phế.

Ngày 26 - 10 - 1955, chính phủ dân cử Ngô Đình Diệm tuyên bố nước Việt Nam theo chế độ Cộng Hoà và là một nước Độc lập. Chế độ đô hộ của Pháp chấm dứt. Quân đội Thực dân rút khỏi Việt nam.

Trước đó, năm 1954, Ngô Đình Diệm trở về Việt Nam làm Thủ tướng nhờ thế lực của Mỹ. Ông lại dùng thế lực Mỹ để đuổi Pháp ra khỏi nước (1955). Về sau, Ngô Đình Diệm muốn thực hiện nền tự trị, nhưng không được Mỹ chấp thuận. Ông từ chối việc để Mỹ mang quân vào Việt Nam. Nhưng đến khi Mỹ mở đường cho Cộng Sản tấn công miền Nam (1958), Ngô Đình Diệm đã phải để Mỹ "tăng viện trợ" quân sự. Tuy nhiên vẫn không chấp thuận cho quân Mỹ xâm nhập. Ông bị Mỹ giết ngày 1 tháng 11 năm 1963. Từ đó Mỹ cho những bộ hạ người Việt dễ sai bảo ra lập chính quyền bù nhìn để Mỹ toàn quyền thao túng.

Mỹ đã dùng Việt Nam như một địa bàn thử nghiệm chiến tranh và dùng Nga, Tàu (qua chiến tranh ở Việt Nam) để quân bình thế đối lực, hầu giải quyết tình trạng bành trướng thái quá của mình. Tình trạng này là nguyên nhân đổ vỡ thế lực Mỹ trên thế giới.

Sau nhiều năm chiến tranh, Mỹ chuyển đổi phương cách khác nên rút về nước (1975) để Cộng Sản toàn quyền cai trị ở Việt Nam.

Viết xong tại Ottawa, Canada
Ngày 26 tháng 2 năm 1982