Quan niệm Cải cách Ruộng đất không phải là quan
niệm mới mẻ. Montesquieu, trong tác phẩm "Espuis des
Lois" năm 1748, có viết rằng: "Trong một nền dân
chủ tốt, chia đều đất đai chưa đủ; cần phải
chia nhỏ ruộng đất như người La Mã đã làm"
(xem tác phẩm "Espuis des Lois", quyển V, chương VI).
Trong các chế độ dân chủ, bản chất của Cải
cách Ruộng đất là hữu sản hoá dân nghèo để
giúp họ có cơ hội phát triển và xây dựng đời
sống kinh tế bắt đầu từ mảnh đất mà họ làm
chủ, dù chỉ là một mảnh đất nhỏ.
Trong các chế độ Cộng sản, bản chất của Cải
cách Ruộng đất là đảo lộn toàn bộ tổ chức
xã hội bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối
với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa màu,
trâu bò và dụng cụ sản xuất như cày, bừa,
cuốc, xẻng, cối xay lúa, cối giã gạo, v.v.... Nói
theo ngôn ngữ Việt cộng, đó là tiến hành cuộc
Cách Mạng Quan Hệ Sản Xuất trong đó có việc thay
đổi quyền làm chủ đất đai, quyền làm chủ tư
liệu sản xuất, và thay đổi quan hệ giữa
người với người (tức là tương quan chủ -
thợ). Có lẽ sự thay đổi tương quan chủ - thợ
có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất đối với số
phận của tất cả mọi nông dân từ bần nông
đến chủ đất, vì nó biến họ vĩnh viễn thành
những người thợ vô sản phục vụ cho chủ nhân
ông Cộng sản, trong một tương quan na ná hoặc
tệ hơn một nông nô dưới chế độ phong kiến.
Một hệ luận quan trọng của việc phế bỏ quyền
tư hữu là sự tập trung đất đai vào tay nhà
nước trong chế độ Cộng sản, thay vì chia nhỏ
đất đai như trong một chế độ dân chủ. Điều
này không phải là điều tình cờ phù hợp với
mục tiêu của Cải cách Ruộng đất mà ta đề cập
dưới đâỵ
2. Mục Tiêu Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Mục tiêu tối hậu của việc phế bỏ quyền tư
hữu đất đai là để giành giật khả năng và
quyền lực chính trị khỏi tay nông dân, và tập
trung quyền lực chính trị đó vào tay chế độ
chuyên chính vô sản. Những người thợ và trí
thức vô sản bị mất hết quyền lực chính trị
vì họ bị khống chế bởi tên chủ Việt cộng qua
hệ thống hộ khẩu và chế độ bình công chấm
điểm. Họ chỉ được đủ ăn tới một mức...
lúc nào cũng còn đói, nếu họ tuân theo những quy
luật do "tên chủ" Việt cộng đề rạ Trong tay họ
không có tài sản, không có tiền, không có vũ
khí; họ bị cô lập bởi hệ thống công an, bởi
thế; về phương diện quyền lực chính trị, mỗi
nông dân là một con số không trong chế độ
Cộng sản. Trong một chế độ dân chủ, một nông
dân dù nghèo rớt cũng còn có một chút vốn kinh
tế vì họ còn làm chủ được tấm thân của họ,
nghĩa là họ còn có một chút quyền lực chính
tri.. Đem gom góp hàng triệu những quyền lực
chính trị nho nhỏ đó, người ta có thể tạo nên
một thế lực tương đối lớn để tự bênh
vực mình.
Trong chế độ Cộng sản, nếu đem gom góp một
triệu con số không (của quyền lực chính trị của
mỗi nông dân), ta cũng vẫn chỉ được một con
số không thiệt tọ Hiểu được như thế, ta
hiểu được hậu quả của cuộc cải cách ruộng
đất đối với việc củng cố bộ máy đàn áp
kềm kẹp của Việt cộng ở miền Bắc.
3. Hậu Quả Ngắn Hạn Của Cuộc Cải Tạo Nông
Nghiệp
Qua sự tập trung đất đai, phương tiện sản
xuất và đoàn ngũ hoá nông dân thành giai cấp
nông nô sau cuộc Cải tạo Nông nghiệp, Việt cộng
hoàn toàn nắm hết tài nguyên, lương thực, khởi
sự xây dựng các nông trường quốc doanh, chuẩn
bị đạo quân xâm lược Lào và miền Nam Việt Nam
(Việt cộng gọi là lấy lương thực phục vụ
chiến trường "C" và "B"). Hậu quả trước mắt
của cuộc Cải tạo Nông nghiệp là giúp Việt cộng
xây dựng cơ sở vật chất để tiến hành chiến
tranh. Hậu quả pháp lý của cuộc Cải tạo Nông
nghiệp là việc định chế hoá các cơ cấu quyền
lực địa phương để tiến hành đấu tranh phi quy
ước trong nội bộ chống lại nhân dân miền
Bắc. Nói một cách rõ hơn, các hợp tác xã nông
nghiệp tại địa phương chính thức trở thành các
cơ sở ban phát quyền lợi, thực thi chính sách
và Bí thư Hợp tác xã, Bí thư Chi bộ xã là
những kẻ có toàn quyền sinh sát tại nông thôn
đã biến thành các cường hào ác bá dưới
triều đại xã hội chủ nghĩa của "Rợ Hồ". Tóm
lại, những hậu quả ngắn hạn và trước mắt là
những điều có lợi cho việc củng cố quyền
lực chính trị của giai cấp thống trị Cộng sản.
Nhưng, hậu quả về lâu về dài là một vấn đề
khác.
4. Hậu Quả Dài Hạn Của Cải Tạo Nông Nghiệp
Là một vấn đề mà Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông,
Hồ Chí Minh và cấp đầu lãnh các Đảng Cộng
sản không nhìn thấy, hoặc vì ảo tưởng trên mây
nên đã nhìn sai và tiên đoán saị Đó là những
vấn đề liên quan đến năng suất lao động,
năng suất đất đai, cơ cấu sản xuất và thị
trường, đưa đến những bế tắc trong nền kinh
tế của mọi quốc gia Cộng sản. Vì chủ quan nghĩ
rằng quyền lực chính trị có thể giải quyết và
"cả vú lấp miệng em" đối với mọi bài toán
trong xã hội, các cấp đầu lãnh Cộng sản, và
Việt cộng nói riêng, đã bị vỡ mặt khi những
bế tắc kinh tế vượt ra ngoài khả năng kiểm
soát của Đảng và các cơ cấu quyền lực chính
trị địa phương biến thành các "sứ quân" tự
chuyên, tự quản nền kinh tế quốc giạ Nhưng,
đây là những chi tiết mà ta sẽ thảo luận khi đi
sâu vào các bài nghiên cứu sắp tớị
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là cuộc Cải
tạo Nông nghiệp tại Bắc Việt đã diễn ra trong
hoàn cảnh nàỏ Để trả lời câu hỏi này, loạt
bài nghiên cứu sắp tới sẽ trình bày về bối
cảnh Địa lý, Kinh tế, Xã hội và Chính trị của
giai đoạn 1949-1957 được tóm lược trong Phần II
dưới đâỵ
IỊ Bối Cảnh Của Cuộc Cải Tạo Nông Nghiệp
Cuộc Cải tạo Nông nghiệp tại miền Bắc có thể
được coi như bắt đầu kể từ Sắc luật Giảm
tô số 78/SL ngày 14 tháng 7 năm 1949 và chính sách
thuế nông nghiệp của chính quyền kháng chiến
nằm trong toàn bộ của chính sách thuế khoá gồm
cả thuế Công-Thương nghiệp, sát sinh, Lâm-Thổ
sản, xuất nhập cảng, v.v... ra đời từ ngày 1
tháng 7 năm 1951 do Sắc luật số 42/SL của Hồ Chí
Minh.
Chính sách thuế Nông nghiệp là phát súng khởi
đầu cho các chiến dịch "phân mảnh định hạng"
các loại ruộng, "bình sản lượng", "bình diện
tích" mỗi mảnh đất để làm căn bản tính thuế,
sau đó tiến lên chiến dịch "chống phản động",
"đấu tranh giảm tô" kéo dài tới năm 1954 chỉ
được tạm chấm dứt khi chiến trường Điện
Biên Phủ bắt đầu nghiêm trọng và đưa đến
Hiệp định Genèvẹ Sau đó, Việt cộng miền Bắc
đã tạm ngưng cuộc đấu tranh Cải cách Ruộng
đất tới cuối năm 1955, đầu năm 1956, vì ba lý
do:
- Việt cộng còn bận lo đón tiếp bộ đội
miền Nam tập kết ra Bắc.
- Việt cộng còn phải đối phó với phong trào di
cư và cuộc đàn áp dân Ba Làng v.v....
- Việt cộng còn phải che dấu thủ đoạn tàn bạo
để trấn an lòng dân, che mắt các quan sát viên
quốc tế, và ổn định tình hình nội bô..
Giai đoạn thứ hai của đấu tranh Cải cách Ruộng
đất bắt đầu từ cuối năm 1955 đầu 1956 trong
đợt phóng tay phát động quần chúng đấu tranh
Cải cách Ruộng đất và lên đến mức độ tàn
bạo nhất trong đợt cải cách Điện Biên Phủ.
Để cho cuộc Cải cách Ruộng đất được nhanh
chóng và đồng đều, tại những vùng mới tiếp
thu và đồng bằng sông Nhị Hà, Việt cộng đã
tiến hành hai cuộc "đấu tranh giảm tô" và "đấu
tranh Cải cách Ruộng đất" vào một lần. Thể
thức đấu tranh cải cách ruộng đất cũng giống
như đấu tranh giảm tô, chỉ kháng ở mức độ
tàn bạo gia tăng và con số nạn nhân cũng gia tăng
do sự "càn đi, quét lại" và "tích tỷ lệ" mà ta
sẽ được giải thích trong những bài phân tích
sắp tớị
Điều đáng chú ý là chính sách Cải cách Ruộng
đất ở miền Bắc đã rập khuôn chính sách Cải
cách Ruộng đất của Trung Quốc mà không có sự
chế biến cho hợp với hoàn cảnh và tình trạng
nông nghiệp ở nước tạ
Các cán bộ Việt cộng có nhiệm vụ trong cuộc
Cải cách Ruộng đất đã học tập kinh nghiệm của
cán bộ Cộng sản Trung Quốc trong cuộc Cải cách
Ruộng đất ở Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch
Đông. Tại Trung Quốc, gia cấp địa chủ điển
hình còn mang nặng tính chất phong kiến lãnh
chúạ Ngoài đồng ruộng thẳng cánh cò bay, một
địa chủ điển hình còn có lâu đài, dinh cơ
vàquân lính riêng để bảo vệ sản nghiệp cũng
như để đàn áp, bóc lột nhân dân. Trong cuộc
Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, một số lớn
những người bị gán là "địa chủ đại gian đại
ác" thường chỉ có mấy mẫu ruộng hoặc ít hơn,
nhưng thuộc thành phần có uy tín ở nông thôn,
và có thể trở thành chống đối Đảng và Nhà
nước.
Vậy, yếu tố giành giật độc quyền chính trị
là yếu tố quan trọng nhất của Cải cách Ruộng
đất, và do đó, Cải cách Ruộng đất là cơ hội
ngàn năm một thuở để Việt cộng đánh quỵ cả
thế lực tinh thần của Giáo hội Công giáọ
Nhiều vị Linh mục Công giáo cũng bị bắt, bị tra
khảo và bị giết, trong đó có Cha Thanh, đã từng
là Linh mục giảng huấn tại Tiểu Chủng viện Ba
Làng năm 1949-1950, một vị chân tu, hiền lành và
đạo đức cũng bị sát hại một cách dã man trong
tù.
Một cuộc cải cách tàn bạo, dã man nhất trong
lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc do chính
người Việt Nam để đàn áp chính người Việt
Nam, tại sao có thể thành công được? Câu trả
lời nằm trong chiến lược và sách lược của
Việt cộng trong Cải cách Ruộng đất.
IIỊ Chiến Lược Và Sách Lược Cải Cách Ruộng
Đất
Những cuộc nghiên cứu qua các nhân chứng của
cuộc cải cách ruộng đất đã cho người ta một
tầm nhìn sâu và rộng đối với quan niệm chiến
lược của Việt cô.ng. Một số cán binh Việt
cộng xâm nhập từ Bắc vào Nam và sau đó ra hồi
chánh đã cung cấp những dữ kiện vừa phong phú,
vừa chi tiết và cụ thể giúp ta nhìn thấy những
đường đi, nước bước có lớp lang của Việt
cộng, những chuẩn bị rất công phu, những mưu
mô lừa bịp tinh vi, che mắt ngay cả những đảng
viên Việt cộng từng vào sinh ra tử trong kháng
chiến.
Hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, Kỹ sư Thuỷ Lợi,
thuộc Bộ Thuỷ Lợi Bắc Việt, trước kia đã
tham gia cải cách ruộng đất tại Xóm Chuối tỉnh
Ninh Bình, tóm tắt quan niệm chiến lược của
Việt cộng như sau:
"Theo tài liệu của Đại hội Đảng chuẩn bị cho
cải cách ruộng đất thì việc đấu tranh giai
cấp giữa địa chủ và nông dân đã được đặt
ra ngay từ khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Họ nhận xét rằng từ 90% đến 95% dân chúng
Việt Nam là nông gia chuyên nghiệp, và trong số
này thì chỉ có khoảng 5% là địa chủ phú nông,
còn đa số đều là kẻ làm thuê, làm mướn, tá
canh, tá điền; do đó, nếu muốn làm cách mạng
xã hội, họ phải lôi cuốn được khối đa số
đó, phải thỏa mãn khối đa số đó bằng quyền
lợi để sau này nắm chặt khối đa số đó
bằng sắt máu...".
Lời tiết lộ ở trên chẳng những tóm tắt quan
niệm chiến lược mà còn phát hiện cả sách
lược của Việt cô.ng. Như ta đã từng định
nghĩa:
Chiến lược là toàn bộ một kế hoạch nhằm
vận dụng sức mạnh căn bản để đánh trúng địch
bằng những đòn chí tử cho tới khi nó gục ngã.
Và sách lược cũng là toàn bộ một kế hoạch
như chiến lược, duy có một điểm khác là để
đạt mục tiêu, toàn bộ kế hoạch sử dụng những
mưu kế để lừa địch, dụ khị địch và qua mặt
đi.ch.
Khi quan niệm rằng đa số dân Việt Nam là nông
dân và đa số nông dân là khối người nghèo và
cần phải lôi cuốn được đa số đó, Việt
cộng đã nói lên được khía cạnh chiến lược
của vấn đề. Sau hết, khi chủ trương phải thỏa
mãn khối đa số đó bằng quyền lợi để sau
này nắm chặt khối đa số đó bằng sắt máu,
Việt cộng nói lên khía cạnh sách lược tức là
phương án lừa bịp và dụ khị, qua mặt đi.ch.
Lừa bịp, dụ khị và qua mặt địch như thế nào
thì đó là những chi tiết kế hoạch sẽ được
trình bày trong nhiều bài sắp tới....
Những giai đoạn "đấu tranh" trước 1954
Đại Cương:
Trong kế hoạch nắm vững toàn bộ nông thôn miền
Bắc, Cộng sản phải tiến qua nhiều giai đoạn,
theo một kỹ thuật tinh vi bắt đầu bằng cuộc
Cải cách Ruộng đất được Đảng mệnh danh là
"một cuộc cải cách long trời lở đất" mà hậu
quả là khiến cho người dân trở thành một đoàn
người khiếp sợ Đảng, đến độ bảo sao cắm
đầu nghe vậy, không dám oán than ngay cả với
người thân trong gia đình.
Nhưng, bắt đầu một cách rất nhẹ tay, năm 1951,
Cộng sản Việt Nam lập ra một tứ thuế nông
nghiệp đánh vào tất cả những ai có ruộng,
vườn trồng trọt được hoa màụ Đến năm
1952-1953 là giai đoạn áp dụng chính sách giảm tô
mà thí điểm là khu Tư như Hoàng Hoá, Phú Thiện
và vùng Trung du Bắc Việt như Bắc Giang, Phú Thọ,
v.v... Chính sách giảm tô đã làm cho hàng ngũ địa
chủ kinh sợ, xuống tinh thần. Các tầng lớp phú
nông, trung nông lo lắng, và sốt sắng tham gia
cách mạng để cầu an vì sợ bị xếp hạng vào
thành phần địa chủ. Trái lại, các tầng lớp
bần nông, cố nông thì sung sướng, thỏa mãn.
Đến năm 1954, chính sách được áp dụng ở Nghệ
An và Trung du Bắc Việt, mặc dầu ở mức tương
đối tàn bạo, nhưng so với năm 1956 hãy còn
được coi là... ôn hòạ
Từ 1954 đến 1955, chính sách Cải cách Ruộng
đất tạm ngưng tiến hành vì Việt cộng đặt
nặng vấn đề chống phong trào di cư, tranh thủ
quần chúng để giữ dân ở lạị
Tới giữa năm 1955, cuộc di cư hoàn tất, việc
phân chia lãnh thổ đã rõ ràng, chính quyền Cộng
sản bắt đầu áp dụng chính sách Cải cách Ruộng
đất trên toàn lãnh thổ Bắc Việt. Việc áp
dụng được thi hành theo từng đợt, mỗi đợt
từ 1 tới 3 tháng với khẩu hiệu: "dựa vào bần
cố nông, đoàn kết trung nông, liên hiệp phú
nông, đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ".
Trong phạm vi bài này, ta sẽ nghiên cứu Thời Kỳ
Đấu Tranh Cải Cách Ruộng Đất trước năm 1954,
và bài kế tiếp sẽ nghiên cứu chi tiết thời kỳ
sau 1954....
oOo
Dựa theo kinh nghiệm đấu tranh tại Hoa Lục, cuộc
Cải cách Ruộng đất tại Bắc Việt lần lượt
trải qua các giai đoạn căn bản sau đây:
- Giai đoạn thi hành chính sách thuế nông nghiệp.
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu
tranh chống phản động (đấu tranh chính trị).
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu
tranh giảm tô giảm tức.
- Giai đoạn phóng tay phát động quần chúng đấu
tranh Cải cách Ruộng đất.
Nếu hiểu như trên thì, trong Kế hoạch Cải cách
Ruộng đất, hai giai đoạn đầu là phần chìm hay
là phần chuẩn bị, giai đoạn đấu tranh giảm tô
là phần làm thử để rút tỉa kinh nghiệm, và
giai đoạn sau chót là phần nổi hay là phần thực
hiện. Để nắm vững toàn bộ Kế hoạch Cải cách
Ruộng đất của Cộng sản Việt Nam, ta hãy quay
trở lại giai đoạn 1951, khi chính sách thuế nông
nghiệp mới được ban hành.
oOo
Thời Kỳ Trước Hiệp Định Genève 1954
Ị Chính sách Thuế Nông Nghiệp
Như đã nói trong bài trước, chính sách thuế
nông nghiệp của Chính quyền Kháng chiến nằm
trong toàn bộ chính sách thuế khoá gồm cả thuế
Công nghiệp, Thương nghiệp, Sát sinh, Lâm sản,
Thổ sản, Xuất nhập cảng v.v... ra đời từ ngày
1 tháng 7 năm 1951 do sắc lệnh số 40/SL. Nhưng,
trong tất cả mọi thứ thuế thì thuế Nông nghiệp
là nguồn lợi căn bản thay thế các loại thuế có
từ trước như thuế ruộng đất, đảm phụ Quốc
phòng, công phiếu Kháng chiến, ủng hộ chiến sĩ
mùa Đông v.v.... Thuế Nông nghiệp nhằm cung ứng
một số lượng lương thực và tài chánh lớn lao
cho Việt cộng trong nỗ lực chiến tranh ngày càng
cấp bách và nặng nề.
Hai nữa là, một phần của chính sách Cải cách
Ruộng đất, thuế Nông nghiệp là một đòn phủ
đầu để đánh quỵ những thành phần có nhiều
ruộng đất, mà chưa cần dùng tới bạo lực.
Một số địa chủ không chịu nổi thuế cao quá,
phải tự động hiến ruộng đất cho Đảng và Nhà
nước (lúc đó còn mệnh danh là "Chính quyền
Kháng chiến"). Một số khác, nếu không hiến
đất cho Đảng và Nhà nước, dĩ nhiên sẽ không
đủ sức nộp thuế theo đúng sự đòi hỏi của
Nhà nước. Như thế là chính họ đã gián tiếp
kết bản án cho mình trong giai đoạn sắp tớị
Sau hết, trong việc thi hành chính sách thuế Nông
nghiệp, Cộng sản để cho dân bình nghị lẫn nhau,
nghĩa là người nọ ấn định mức lợi tức của
người kia để cán bộ dựa vào đó bổ thuế
theo tỷ lệ thuế của chính quyền. Khi để cho dân
chúng bình nghị lẫn nhau, Cộng sản đã tự đề
cao là chúng theo chính sách dân chủ, nhưng thực
ra, dụng ý của Đảng là mượn tay người để
đánh người, gây mầm đấu tranh căn bản theo
chiến thuật của Cộng sản là "lấy mâu thuẫn
diệt mâu thuẫn".
Theo tài liệu chính thức, được phổ biến trên
tờ Cứu Quốc số 2080 ngày 6-7-1952, thì tất cả
những nông dân nào có mức lợi tức trung bình
từ 71Kg gạo một năm trở lên đều phải nộp
thuế. Thuế Nông nghiệp là thứ thuế lũy tiến,
lợi tức càng lớn thì tỷ lệ thuế càng caọ
Phân Hạng Thuế Nông Nghiệp
Phân hạng Phân hạng Lợi tức trung bình
mỗi đầu người Tỷ lệ thuế
1 từ 71Kg tới 95Kg 5%
2 96Kg - 115Kg 6%
3 116Kg - 135Kg 7%
4 136Kg - 155Kg 8%
5 156Kg - 175Kg 9%
6 176Kg - 205Kg 10%
7 206Kg - 235Kg 11%
8 236Kg - 265Kg 12%
9 266Kg - 295Kg 13%
10 296Kg - 325Kg 14%
11 326Kg - 355Kg 15%
12 356Kg - 385Kg 16%
13 386Kg - 425Kg 17%
14 426Kg - 465Kg 18%
15 466Kg - 505Kg 19%
16 506Kg - 545Kg 20%
17 546Kg - 585Kg 21%
18 586Kg - 625Kg 22%
19 626Kg - 665Kg 23%
20 666Kg - 705Kg 24%
21 706Kg - 775Kg 25%
22 776Kg - 805Kg 26%
23 806Kg - 855Kg 27%
24 856Kg - 905Kg 28%
25 906Kg - 955Kg 29%
26 956Kg - 1005Kg 30%
27 1006Kg - 1055Kg 31%
28 1056Kg - 1105Kg 32%
29 1106Kg - 1155Kg 33%
30 1156Kg - 1215Kg 34%
31 1216Kg - 1275Kg 35%
32 1276Kg - 1335Kg 36%
33 1336Kg - 1395Kg 37%
34 1396Kg - 1455Kg 38%
35 1456Kg - 1515Kg 39%
36 1516Kg - 1575Kg 40%
37 1576Kg - 1635Kg 41%
38 1636Kg - 1695Kg 42%
39 1696Kg - 1755Kg 43%
40 1756Kg - 1815Kg 44%
41 1816Kg trở lên 45%
Theo bảng phân hạng thuế này thì, trên lý thuyết,
tỷ lệ thuế tối đa là 45% mức lợi tức trung
bình, nhưng trên thực tế, qua kỹ thuật "bình
nghị", chính quyền có thể khiến một người khá
giả phải đóng thuế tới... 100% lợi tức. Ví dụ:
Mức lợi tức trung bình của nông dân A là 1800Kg,
chính quyền có thể vận động để dân "bình
nghị", gán cho nông dân A mức lợi tức là...
4000Kg và khi phải đóng theo tỷ lệ 45% thành 4000 X
45/100 = 1800Kg, thế là nông dân A bị phá sản, vì
làm được bao nhiêu phải nộp thuế hết.
Trước khi bình nghị, cán bộ Đảng lãnh đạo
việc "phân mảnh định hạng" tức là xếp hạng
từng mảnh ruộng tùy theo đất cao, thấp, tốt,
xấu theo thứ tự A, B, C v.v....
Kỹ thuật bình nghị gồm có "bình sản lượng" và
"bình diện tích". Khi đã "phân mảnh định hạng"
xong, cán bộ thuế triệu tập nông dân, gồm tá
điền và chủ điền, để "bình sản lượng", tức
là ấn định mức năng suất của một mảnh ruô.ng.
Điểm cốt yếu của kỹ thuật "bình sản lượng"
là Đảng dùng những phần tử cốt cán là các tá
điền có đảng tịch, hoặc có cảm tình với Đảng
để "bình sản lượng".
Những người này xác nhận mảnh ruộng do mình
canh tác có một sản lượng thật caọ Dĩ nhiên,
người chủ điền hay những người có mảnh ruộng
kế cận, cùng một hạng, phải chấp nhận mà
không có cách gì thanh minh; bởi vì, trên danh
nghĩa, người tá điền là người trực tiếp cày
cấy trên mảnh ruộng và biết được năng suất
của mảnh ruô.ng. Nếu người chủ đất khai báo
một năng suất thấp, mọi người dễ dàng tin
rằng chủ đất đã khai gian để trốn thuế.
"Bình diện tích" nghĩa là xác định lại diện
tích của từng thửa ruô.ng. Mặc dù trong trích
lục của mỗi thửa ruộng đều có ghi diện tích
đó, nhưng cán bộ thuế không chấp nhận, viện
cớ rằng nhân viên của Chính phủ Bảo hộ thời
xưa đã ăn tiền của chủ điền mà bớt diện
tích để bớt thuế.
Dĩ nhiên, khi "bình diện tích" thì bao giờ thửa
ruộng cũng bị gán cho một diện tích lớn hơn,
mặc dù không có đo lường chính xác. Sau khi đã
"bình sản lượng" và "bình diện tích" thì tổng
số thu hoạch của một thửa ruộng chính là sản
lượng nhân với diện tích. Ví dụ: Một thửa
ruộng có diện tích 3 mẫu và có sản lượng 2
tấn mỗi mẫu, thì tổng số thu hoạch của thửa
ruộng là 3 mẫu X 2tấn/mẫu = 6 tấn mỗi năm.
Giai đoạn áp dụng chính sách thuế Nông nghiệp
đã hoàn toàn thành công, với kết quả là chính
quyền vơ vét được một số lượng tài lực
lớn lao, đồng thời gây nên được mầm mống
mâu thuẫn "bình nghị".
oOo
Tới đây, ta cần ôn lại một số danh từ và lề
lối làm ăn sinh sống của nông dân trong giai đoạn
Cải cách Ruộng đất của Việt cô.ng. Những danh
từ như tá điền, điền tốt, bần cố nông,
bần nông, trung nông, phú nông, địa chủ là những
danh từ chỉ các loại nông dân chuyên nghiệp tùy
theo mức độ tài sản mà họ có.
Một bần nông, theo định nghĩa của Việt cộng,
là một nông dân nghèo không có đất đai để
cày cấy, hoặc chỉ có mấy sào ruộng là tối
đạ Một bần cố nông là một người suốt đời
chỉ là một nông dân nghèo (vô sản). Một trung
nông, theo định nghĩa của Việt cộng, là một
người có một vài mẫu ruộng trở lạị Một phú
nông là người có cả chục mẫu ruộng trở lên.
Một trung nông hay phú nông có thể là một địa
chủ nếu người đó không trực tiếp canh tác mà
thuê người khác làm cho mình. Một điền tốt là
một nông dân đi làm công cho một địa chủ và
được trả công như một người thơ.. Một tá
điền là một nông dân mướn đất của địa chủ
với điều kiện phải trả một mức lời nào đó
cho địa chủ, theo từng mùa canh tác. Số lời đó
được gọi là địa tô và lối làm ăn như thế
gọi là "tá canh" hay "làm rẽ". Số lời (địa tô)
chia cho chủ đất có thể dưới hình thức tiền
bạc hoặc hoa màu; ví dụ như trong giai thoại ông
Trạng Quỳnh cấy rẽ đất của Bà Chúa (có lẽ
thời Vua Lê, Chúa Trịnh). Những nông dân trực
tiếp canh tác đất của mình thì gọi là "trực
canh".
Trong thời kỳ chiến tranh Viê.t-Pháp, một số
đông nông dân bỏ vùng mất an ninh để về Tề,
và Việt Minh đã khuyến khích những người khác
chiếm hữu đất đai bỏ lại để canh tác. Tình
trạng này được gọi là "chiếm canh", một vấn
đề tế nhị về chính trị, đã được chính
quyền Quốc gia dưới chế độ Bảo Đại giải
quyết bằng cách chấp nhận cho những người
chiếm canh được hưởng toàn bộ hoa lợi do họ
làm ra, tuy nhiên quyền sở hữu đối với ruộng
đất vẫn thuộc chủ đất nếu họ trở về canh
tác (Thông điệp đầu Xuân Ân lịch 1951 của Quốc
Trưởng Bảo Đại).
Vấn đề định nghĩa các thành phần bần nông,
trung nông, phú nông và địa chủ là vấn đề rất
quan trọng đối với Việt cộng trong việc ngầm
xác định ai là đối tượng cần liên hiệp và ai
là đối tượng cần tiêu diệt trong giai đoạn
đấu tranh chính trị sắp tớị Gọi là ngầm xác
định vì, trong giai đoạn "Thuế Nông Nghiệp",
Việt cộng chưa công khai hoá chủ trương tiêu
diệt địa chủ mà chỉ nhắm vào một số nạn nhân
có tính cách điển hình, và "tội danh" của họ
dựa trên "căn bản pháp lý" của Thuế Nông
Nghiệp, chứ không phải trên căn bản thành phần
giai cấp.